Dies irae
"Dies irae" ( tiếng Latinh giáo hội: [ˈdi.es ˈi.re]; "Ngày Phẫn nộ") là một ca tiếp liên tiếng Latinh được cho là của Tôma thành Celano thuộc dòng Phanxicô (1200–1265) hoặc Latino Malabranca Orsini (mất năm 1294), giảng viên tại studium dòng Đa Minh tại Santa Sabina, tiền thân của Đại học Giáo hoàng Saint Thomas Aquinas (Angelicum) Ở Rome.[1] Ca tiếp liên này có niên đại muộn nhất là vào thế kỷ 13, mặc dù có thể là lâu đời hơn nhiều, với một số nguồn cho rằng nguồn gốc của nó là từ Thánh Grêgôriô Cả (mất năm 604), Bêrnarđô thành Clairvaux (1090–1153), hoặc Bônaventura (1221–1274).[2]
Nó được biết đến nhiều nhất từ việc sử dụng nó trong Thánh lễ an táng theo Nghi lễ Rôma. Một phiên bản tiếng Anh được tìm thấy trong các sách phụng vụ Hiệp thông Anh giáo khác nhau.
Sử dụng trong phụng vụ Rôma
[sửa | sửa mã nguồn]"Dies irae" đã được sử dụng trong Hình thức Ngoại thường của phụng vụ Nghi thức Rôma làm ca tiếp liên cho Thánh lễ An táng trong nhiều thế kỷ, như được thể hiện rõ bởi vị trí quan trọng của nó trong các bài phổ nhạc như của Mozart và Verdi . Nó xuất hiện trong Sách Lễ Rôma năm 1962, ấn bản cuối cùng trước khi thực hiện các sửa đổi xảy ra sau Công đồng Vaticanô II . Như vậy, nó vẫn được nghe thấy trong các nhà thờ nơi cử hành nghi lễ Triđêntinô tiếng Latinh. Nó cũng là một phần của nghi lễ trước công đồng của Ngày Các Đẳng.
" Dies irae " vẫn là một bài thánh thi ad libitum trong các Giờ Kinh Phụng vụ trong tuần cuối cùng trước Mùa Vọng (tuần XXXIV Mùa Thường Niên, được chia thành ba phần cho Kinh Sách, Kinh Sáng và Kinh Chiều.[3]
Bản văn
[sửa | sửa mã nguồn]Bản gốc | Bản dịch[4] | |
---|---|---|
I |
Dies iræ, dies illa, |
Ngày ấy, ngày nổi giận, |
Trong những cải cách phụng vụ năm 1969–71, khổ thơ 19 đã bị xóa và bài thánh thi được chia thành ba phần: 1–6 (dành cho Kinh Sách), 7–12 (dành cho Kinh Sáng) và 13–18 (dành cho Kinh Chiều). Ngoài ra, "Qui Mariam absolvisti" trong khổ thơ 13 được thay thế bằng "Peccatricem qui solvisti" do đó dòng đó bây giờ có nghĩa là, "Chúa đã tha cho người đàn bà tội lỗi". Điều này là do học thuật hiện đại phủ nhận thông tin nhận dạng thông thường của người đàn bà ngoại tình với Maria Magđalêna, vì vậy Maria không còn có thể được nêu tên trong câu này nữa. Ngoài ra, một vinh tụng ca được đưa ra sau khổ 6, 12 và 18: [3]
Nguyên bản | Tạm dịch |
---|---|
O tu, Deus majestatis, |
Lạy Thiên Chúa uy nghi |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Crociani, G. (1901). Scritti vari di Filologia. Rome: Forzani &c. tr. 488. LCCN 03027597. OCLC 10827264. OL 23467162M. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2022 – qua Internet Archive.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênCathEncy
- ^ a b Liturgia Horarum. IV. Vatican City: Libreria Editrice Vaticana. 2000. tr. 489. ISBN 9788820928124. OCLC 44683882. OL 20815631M. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2022. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “LHIV” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ “Thánh lễ An táng”. Sách Lễ. Nhà xuất bản Hiện Tại biên dịch . Cơ sở Xuất bản Sách báo Công Giáo Địa phận Hà Nội: Nhà xuất bản Hiện Tại. 1969 [1962]. tr. 1182–1185.